Nhân dịp Lễ Phục Sinh 2014, Hội Thánh Báp-tít Sugar Land sẽ mời các học viên ESL đến tham dự thờ phượng. Sau buổi lễ sẽ có giờ sinh hoạt cho các em . Hội Thánh sẽ có hề đến vẽ mặt, làm bong bóng, và trò ảo thuật cho các em chung vui. Năm ngoái không những các em mà một số phụ huynh cũng tham gia. Người hề năm nay khác với năm ngoái vì bà đã nhận lời một hội thánh khác từ lâu. Hy vọng người hề mới này cũng khéo léo như người hề năm ngoái để tất cả đều nhận được niềm vui trong ngày lễ.
"Hy vọng" cũng là một khía cạnh trong sứ điệp Phục Sinh năm nay. Trong bài giảng, tôi muốn phân biệt sự khác nhau giữa hai cách dùng chữ "hy vọng." Trong đời sống hàng ngày, "hy vọng" là mong mỏi một việc nào đó có thể xảy ra trong tương lai. Việc đó cũng có thể không xảy ra như được hy vọng. Ngược lại, khi Kinh Thánh muốn chỉ về sự trông cậy vào lời hứa của Chúa thì chữ "hy vọng" có sắc thái của một việc chắc chắn sẽ xảy ra.
Bản dịch NIV dùng chữ "hope" cả thảy 166 lần. Nhưng chỉ có một lần được bổ túc bằng tiếng tính từ "blessed" tạo thành một từ kép: "The blessed hope." Cụm từ này, trong Tít 2:13, nói lên niềm hy vọng của các Cơ-đốc nhân về ngày Chúa Jêsus sẽ trở lại để rước Hội Thánh lên với Chúa. Tuy không ai biết rõ ngày giờ Chúa sẽ trở lại, nhưng tất cả chúng ta đều biết chắc chắn rằng Chúa Jêsus sẽ trở lại. Sự phục sinh của Ngài là khởi đầu và sự thành tín của Ngài bảo đảm cho niềm hy vọng đó.
"Hy vọng" bạn có thể tham dự Lễ Phục Sinh tại Hội Thánh Sugar Land. "Hy vọng" rằng Chúa sẽ kêu gọi những người chưa tin Chúa tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa trong dịp này. Xin bạn đọc Tít 2:11-14 rồi cầu nguyện xin Chúa cho các chữ "hy vọng" tôi dùng trong đoạn này mang ý nghĩa của Kinh Thánh chứ không mang ý nghĩa thông thường.
"Hy vọng" cũng là một khía cạnh trong sứ điệp Phục Sinh năm nay. Trong bài giảng, tôi muốn phân biệt sự khác nhau giữa hai cách dùng chữ "hy vọng." Trong đời sống hàng ngày, "hy vọng" là mong mỏi một việc nào đó có thể xảy ra trong tương lai. Việc đó cũng có thể không xảy ra như được hy vọng. Ngược lại, khi Kinh Thánh muốn chỉ về sự trông cậy vào lời hứa của Chúa thì chữ "hy vọng" có sắc thái của một việc chắc chắn sẽ xảy ra.
Bản dịch NIV dùng chữ "hope" cả thảy 166 lần. Nhưng chỉ có một lần được bổ túc bằng tiếng tính từ "blessed" tạo thành một từ kép: "The blessed hope." Cụm từ này, trong Tít 2:13, nói lên niềm hy vọng của các Cơ-đốc nhân về ngày Chúa Jêsus sẽ trở lại để rước Hội Thánh lên với Chúa. Tuy không ai biết rõ ngày giờ Chúa sẽ trở lại, nhưng tất cả chúng ta đều biết chắc chắn rằng Chúa Jêsus sẽ trở lại. Sự phục sinh của Ngài là khởi đầu và sự thành tín của Ngài bảo đảm cho niềm hy vọng đó.
"Hy vọng" bạn có thể tham dự Lễ Phục Sinh tại Hội Thánh Sugar Land. "Hy vọng" rằng Chúa sẽ kêu gọi những người chưa tin Chúa tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa trong dịp này. Xin bạn đọc Tít 2:11-14 rồi cầu nguyện xin Chúa cho các chữ "hy vọng" tôi dùng trong đoạn này mang ý nghĩa của Kinh Thánh chứ không mang ý nghĩa thông thường.
"Vả, ân điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi. 12 Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức, 13 đang chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ, 14 là Đấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành14 là Đấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta khỏi mọi tội và làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành."
Tít 2:11-14
Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn,
Mục sư Bùi Thế Hiền
Tít 2:11-14
Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn,
Mục sư Bùi Thế Hiền